114 tỷ USD đầu tư cho nguồn điện, những doanh nghiệp nào sẽ có triển vọng lớn nhất?

114 tỷ USD đầu tư cho nguồn điện, những doanh nghiệp nào sẽ có triển vọng lớn nhất? - Ảnh 1.

Phối cảnh dự án nhà máy điện khí LNG bên bờ vịnh Bái Tử Long

114 tỷ USD đầu tư cho nguồn điện

Sau những cam kết mạnh mẽ tại COP26 (Hội nghị lần thứ 26 Các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu ) và mới đây nhất là COP27, mục tiêu đạt phát thải ròng bằng “0”, Chính phủ Việt Nam đã điều chỉnh quan điểm phát triển nguồn điện từ Quy Hoạch Điện 7 (QHĐ7) sang một phương án chuyển đổi năng lượng mạnh mẽ hơn trong Quy Hoạch Điện 8 (QHĐ8).

Về cơ bản, QHĐ7 và QHĐ8 đều được xây dựng nhằm đáp ứng kịch bản phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 7% và tăng trưởng tiêu thụ điện trung bình khoảng 9% trong giai đoạn 2021 - 2030. Tuy nhiên, tỉ trọng cơ cấu nguồn điện đã có sự thay đổi đáng kể, trong đó, QHĐ8 đẩy mạnh phát triển các giải pháp xanh hơn với nỗ lực hoàn thành các thỏa thuận trong “Đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng” (JETP) đã ký kết trong 2022.

Dự kiến điện khí sẽ là nguồn điện mũi nhọn trong giai đoạn 2021 - 2030 với tăng trưởng kép đạt 26%, mức cao nhất trong số các nguồn điện chính và chiếm 27% tổng công suất nguồn điện.

Trong giai đoạn 2030 - 2050, tăng trưởng kép điện khí sẽ chậm lại đạt 4%, chiếm 15% tổng công suất. Đáng chú ý, nhằm đẩy nhanh tiến độ giảm phát thải, điện khí sẽ phải chuyển đổi một phần nhiên liệu đầu vào sang đốt kèm với hydro sau 20 năm hoạt động.

114 tỷ USD đầu tư cho nguồn điện, những doanh nghiệp nào sẽ có triển vọng lớn nhất? - Ảnh 2.

Với tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo lớn của Việt Nam, dự kiến phát triển điện gió sẽ là mục tiêu quan trọng nhất trong cả ngắn và dài hạn, đặc biệt khi Việt Nam có những động lực nhằm đạt được những tiêu chuẩn của JETP đề ra với nỗ lực huy động được những nguồn vốn xanh, rẻ.

Theo đó, điện gió sẽ tăng trưởng kép 25% trong 2021 - 2030 và 6% trong 2030 - 2050, chiếm lần lượt 13% và 14% tổng công suất nguồn trong 2 giai đoạn này. Hơn nữa, dự kiến Việt Nam sẽ đưa vào vận hành 6.000MW điện gió ngoài khơi đầu tiên trong 2021 - 2030, sau đó sẽ bắt đầu phát triển mạnh mẽ hơn nguồn điện này với tăng trưởng kép đạt 15% trong 2030 - 2050, chiếm 16% tổng công suất nguồn điện.

Sau giai đoạn phát triển ồ ạt 2020 - 2021, dự kiến tăng trưởng công suất điện mặt trời sẽ chậm lại từ nay đến 2030. Tuy nhiên, QHĐ8 vẫn khuyến khích phát triển không giới hạn điện mặt trời với mục đích tự tiêu thụ. Theo đó, công suất điện mặt trời dự kiến tăng trưởng khiêm tốn giai đoạn 2021- 2030 và tăng mạnh trở lại 15% từ 2030 trở đi, và chiếm 33% tổng công suất nguồn điện trong 2050.

QHĐ8 chính thức loại bỏ tổng cộng 13.220MW điện than , đánh dấu hồi kết sớm cho nguồn điện này. Hiện tại, phương án phát triển nguồn cũng đã tính đến trường hợp 6.800MW được bổ sung quy hoạch nhưng có rủi ro không triển khai được do những khó khăn về thu xếp vốn, bù đắp bằng việc tiếp tục nâng cao tỉ trọng điện gió và điện khí.

Trong thời gian tới, các nhà máy điện than trên 40 năm sẽ bị loại bỏ, trong khi các nhà máy khác sẽ phải nghiên cứu đốt kèm thêm ammoniac sau 20 năm hoạt động. Dự kiến công suất điện than sẽ tăng 2% trong 2021 - 2030 và giảm 1% trong 2030 - 2050, tỉ trọng giảm từ 19% tổng công suất trong 2030 xuống còn 4% trong 2050.

Công suất thủy điện tăng trưởng kép 1% trong 2021 - 2050 do nguồn điện này về cơ bản đã gần hết tiềm năng khai thác, chỉ còn dư địa để phát triển các dự án thủy điện vừa và nhỏ. Ở khía cạnh khác, QHĐ8 đã mạnh dạn đề cao hơn việc phát triển các nguồn điện lịnh hoạt khác như thủy điện tích năng, pin lưu trữ, và các nguồn điện sinh khối.

Tổng mức đầu tư cho nguồn điện dự kiến đạt 114 tỷ USD trong giai đoạn 2021 - 2030, phân bổ chủ yếu cho điện khí (30%) và điện gió (35%). Nhiệt điện than trong giai đoạn này cũng chiếm một phần không nhỏ khoảng 15% tổng nhu cầu vốn.

Giai đoạn 2030 - 2050, tổng nhu cầu vốn sẽ tăng mạnh và đạt khoảng 495 tỷ USD, trong đó nhu cầu vốn cho điện gió chiếm phần lớn (63%) và sau đó là điện mặt trời (18%). Mặt khác, nhu cầu phát triển lưới điện dự kiến chiếm khoảng 11% tổng nhu cầu vốn ngành điện trong 2021 - 2030 và 7% trong 2031 - 2050.

Những doanh nghiệp nào sẽ có cơ hội?

"Chúng tôi nhận thấy việc ban hành QHĐ8 đã làm rõ hơn bức tranh ngành điện Việt Nam trong thời gian tới, đồng thời cũng mở ra cơ hội tăng trưởng tươi sáng cho các doanh nghiệp nhóm ngành này", báo cáo phân tích ngành điện của Công ty chứng khoán VnDirect nhận định.

Cùng với đó, công ty chứng khoán này cũng cho hay, sẽ có một số doanh nghiệp có cơ hội thuận lợi từ Quy Hoạch Điện 8.

114 tỷ USD đầu tư cho nguồn điện, những doanh nghiệp nào sẽ có triển vọng lớn nhất? - Ảnh 3.

Báo cáo này cho rằng các doanh nghiệp lĩnh vực xây lắp hạ tầng điện sẽ có cơ hội rõ ràng nhất nhờ khối lượng công việc khá cao trong kế hoạch của QHĐ8, đặc biệt trong các nhóm ngành điện khí và năng lượng tái tạo.

"Theo đó, nhóm ngành xây lắp điện bao gồm đường dây, trạm biến áp cũng sẽ ghi nhận mức tăng tương ứng nhằm đảm bảo khả năng hấp thụ và tính hiệu quả của hệ thống. Tuy nhiên, đối với nhóm năng lượng tái tạo, chúng tôi cho rằng chính sách giá năng lượng tái tạo mới là yếu tố làm rõ ràng hơn triển vọng của nhóm ngành này.

Chúng tôi điểm tên một số những doanh nghiệp niêm yết nổi bật trong nhóm xây lắp hạ tầng điện bao gồm PC1 (Công ty Cổ phần Tập đoàn PC1), FCN (Công ty cổ phần FECON), TV2 (Công ty Cổ phần Tư vấn Xây dựng Điện 2) sẽ là những doanh nghiệp được hưởng lợi sớm nhất từ luận điểm này. Trong dài hạn hơn, PVS dự kiến cũng sẽ được hưởng lợi do tham gia vào lĩnh vực xây lắp điện gió ngoài khơi, với kinh nghiệm trong những dự án gần đây như Thăng Long, La Gàn.

Chúng tôi điểm tên một doanh nghiệp điện khí nói chung và điện khí LNG nói riêng có triển vọng tươi sáng hơn do sở hữu dự án đã được phê duyệt trong QHĐ bao gồm Nhơn Trạch 3&4 (POW), LNG Long Sơn (PGV, TV2), Ô Môn 3,4 (GE2). Chúng tôi tin rằng GAS cũng sẽ được hưởng lợi chính trong giai đoạn phát triển này do thực hiện phát triển các dự án kho cảng LNG.

Chúng tôi cho rằng QHĐ8 được phê duyệt sẽ thúc đẩy tiến độ các dự án mỏ khí tỷ đô vốn đã bị đình trệ lâu nay như Lô B, Cá Voi Xanh trong những năm tới nhằm đảm bảo nguồn khí trong nước và giảm phụ thuộc vào việc nhập khẩu LNG cho phát điện tại Việt Nam", báo cáo phân tích.

Xem thêm tại cafef.vn