Ngần ngại khi cấp phép 'nhà băng kiểu mới'

Đường dài xây khung pháp lý

Mô hình ngân hàng thuần số tại Việt Nam đã chứng minh được khả năng hoạt động hiệu quả khi Cake by VPBank trở thành ngân hàng thuần số đầu tiên công bố đạt được lợi nhuận trong vận hành chỉ sau 3,5 năm ra mắt. Điều này tiếp thêm niềm tin đối với mô hình ngân hàng mới mẻ này – loại hình nhà băng không triển khai phòng giao dịch hay chi nhánh mà tất cả hoạt động đều được thực hiện trên ứng dụng di động của người dùng.

Với sự đi lên mạnh mẽ của công nghệ, tỷ lệ tăng trưởng của các ngân hàng thuần số có thể đạt mức ba con số mỗi năm, theo dự báo của giới phân tích. Tuy nhiên, việc thiếu hụt các quy định pháp lý chuyên biệt có thể trở thành rào cản đối với sự phát triển của mô hình ngân hàng này, cũng như thị trường tài chính số nói chung.

Trao đổi với Đầu tư Tài chính, luật sư Trần Minh Hải, Giám đốc điều hành BASICO, nhận định sự hình thành và phát triển của ngân hàng thuần số sẽ có nhiều lợi ích cho thị trường tài chính ở Việt Nam. Số lượng các định chế tài chính sẽ đa dạng hơn, khách hàng có thêm nhiều tiện ích, doanh nghiệp thêm nhiều cơ hội đón nhận nguồn vốn và lựa chọn cho phù hợp với nhu cầu vốn trong kinh doanh.

“Việt Nam hiện trong giai đoạn chuyển đổi số ở nhiều ngành nghề, lĩnh vực. Đối với lĩnh vực ngân hàng, nhu cầu phát triển mô hình ngân hàng số là có, nên việc hoàn thiện khung pháp lý cho mô hình kinh doanh này là tất yếu. Bước triển khai xây dựng hoàn thiện khung pháp lý cho mô hình này đã có những hành động pháp lý cụ thể như Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã phê duyệt “Kế hoạch chuyển đổi số ngành Ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” theo Quyết định số 810/QĐ-NHNN ngày 11/5/2021”, luật sư Trần Minh Hải cho biết.

Theo ông, để có thể xác định một khung pháp lý hoàn thiện, cần có các quy định chuyên biệt về ngân hàng số trong Luật Các tổ chức tín dụng, sau đó là một nghị định chuyên biệt và các thông tư liên quan từ phía Ngân hàng Nhà nước. Hiện nay, Luật Các tổ chức tín dụng 2024 đã đưa ra một số quy định mang tính khai phá. Cụ thể so với các đạo luật Các tổ chức tín dụng trước đây, Luật năm 2024 đã đưa ra 2 quy định tại Điều 105, 106 về giao dịch điện tử và cơ chế thử nghiệm có kiểm soát trong lĩnh vực ngân hàng. Theo đó, sẽ cho phép thực hiện các phương thức giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng, cho phép lập môi trường thử nghiệm triển khai ứng dụng công nghệ, sản phẩm, dịch vụ, mô hình kinh doanh mới trong lĩnh vực ngân hàng.

“Tuy nhiên, xét theo tiêu chí một khung pháp lý hoàn thiện, thì hiện nay chúng ta mới dừng lại ở bước đưa một số nguyên tắc vào văn bản luật. Mô hình ngân hàng số sẽ còn chờ các văn bản dưới luật mới có cơ sở hoàn thiện triển khai”, luật sư Trần Minh Hải cho hay.

Theo tìm hiểu của Đầu tư Tài chính, cơ chế thử nghiệm có kiểm soát được nhắc tới còn được gọi vắn tắt là sandbox. Việc triển khai sandbox tại Việt Nam diễn ra khá chậm, bằng chứng là dự thảo Nghị định về sandbox hoạt động công nghệ tài chính (Fintech) trong lĩnh vực ngân hàng đã được “thai nghén” tới bốn năm và vẫn chưa chính thức được ban hành. Luật sư Trần Minh Hải cho biết cơ quan có thẩm quyền đang hướng đến việc thử nghiệm và dựa trên kết quả thử nghiệm sẽ xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho loại mô hình ngân hàng thuần số.

Thiếu cơ sở an toàn để cấp phép

Thực tế cho thấy, các trung tâm tài chính lớn trên thế giới như Trung Quốc, Singapore hay Hong Kong đều đã tiên phong cấp phép hoạt động độc lập cho ngân hàng số, coi đây như một ngân hàng đầy đủ chức năng với giấy phép riêng biệt. Với định hướng phát triển hai địa phương là Đà Nẵng và TP. HCM thành các trung tâm tài chính khu vực và quốc tế, nhiều chuyên gia cho rằng cần sớm thúc đẩy việc cấp giấy phép riêng cho các ngân hàng thuần số để hoàn thiện hệ sinh thái tài chính, ngân hàng tại Việt Nam, trong bối cảnh thị trường còn thiếu nhiều mô hình, sản phẩm so với một số nước trong khu vực, cũng như trên toàn cầu.

“Khi chưa vượt qua được yếu tố nâng tầm nhận thức của khách hàng và quản lý chặt cơ chế bảo đảm trách nhiệm của ngân hàng, việc cấp phép đại trà kinh doanh mô hình ngân hàng thuần số chưa có cơ sở an toàn để thực hiện”, luật sư Trần Minh Hải

Theo Luật sư Trần Minh Hải, có ba yếu tố chính để đánh giá độ sớm - trễ của việc áp dụng cấp phép triển khai mô hình kinh doanh ngân hàng số thuần túy ở Việt Nam. Một là khả năng đáp ứng về công nghệ; hai là khả năng quản trị rủi ro; ba là nhận thức về rủi ro của khách hàng và cơ chế bảo đảm trách nhiệm với khách hàng của tổ chức kinh doanh ngân hàng số. Trong đó, yếu tố về khả năng đáp ứng công nghệ và quản trị rủi ro đã được các ngân hàng chứng minh trong thực tiễn về khả năng bảo đảm. Yếu tố thứ ba theo đánh giá của luật sư Trần Minh Hải là một thách thức trong quản lý nhà nước về lĩnh vực ngân hàng, bởi lẽ khi tham gia vào giao dịch ngân hàng nói chung và ngân hàng số thuần túy nói riêng, khách hàng cũng cần trình độ, nhận thức về rủi ro.

“Thị trường tài chính Việt Nam đã chứng kiến quá nhiều bài học sự sai lầm của khách hàng khi mua bán các sản phẩm trái phiếu, bảo hiểm qua ngân hàng mà không quan tâm đến rủi ro, gửi tiền vào ngân hàng theo lãi suất cao hay thấp, chứ không phải theo chất lượng và độ an toàn của ngân hàng. Chính vì vậy, khi chưa vượt qua được yếu tố nâng tầm nhận thức của khách hàng và quản lý chặt cơ chế bảo đảm trách nhiệm của ngân hàng, việc cấp phép đại trà kinh doanh mô hình ngân hàng số thuần túy chưa có cơ sở an toàn để thực hiện”, luật sư Trần Minh Hải nhận định.

Trong việc xây dựng hành lang pháp lý đối với lĩnh vực ngân hàng số, ông Hải đề cao sự thận trọng, hướng tới yếu tố thực sự áp dụng hiệu quả trên thực tế khi ban hành, trong đó có sự cân bằng giữa nhu cầu quản lý nhà nước và sự thông thoáng đối với các tổ chức, cá nhân tham gia vào mô hình ngân hàng số. Sự cân bằng giữa đổi mới, thúc đẩy phát triển với đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính nằm ở mức độ hợp lý của việc đặt ra quy định và áp dụng quy định trong khung pháp lý ngân hàng số.

Dự báo về tương lai của mô hình ngân hàng số, vị luật sư này cho rằng sẽ có sự phân hóa về chất lượng dịch vụ, được đánh giá từ cả phía khách hàng và cơ quan quản lý nhà nước. Ông nhấn mạnh ba yếu tố trọng tâm định hình sự phát triển của lĩnh vực này. Thứ nhất là mức độ đầu tư công nghệ của các tổ chức kinh doanh ngân hàng số. Thứ hai là việc nâng cao nhận thức của khách hàng trong việc đánh giá và phân loại các ngân hàng. Thứ ba là số lượng và thị phần rõ rệt của các tổ chức định chế tài chính trong lĩnh vực này.

“Tôi hy vọng ngân hàng thuần số sẽ là một trong những nhân tố chính thúc đẩy thị trường tài chính Việt Nam phát triển, đáp ứng nhu cầu phát triển liên tục của nền kinh tế,” ông Hải kết luận.

Xem thêm tại vietnamfinance.vn