Vàng "thủng" mốc 80 triệu đồng/lượng; Nhiều ông lớn ngân hàng lên kế hoạch bán vốn

Vàng miếng thủng mốc 80 triệu đồng/lượng, tỷ giá kề sát 25.000 đồng/USD

Vàng, đô hai lối. Vàng giảm, nhưng tỷ giá chưa ngừng tăng. Bất chấp nỗ lực phát hành tín phiếu của Ngân hàng Nhà nước, tỷ giá USD tại các ngân hàng thương mại đã tăng mạnh trong cả tuần, hiện được bán ra ở mức 24.970 đồng/USD.

Nối đà giảm sâu hôm qua, giá vàng miếng SJC tiếp tục “bốc hơi”  gần cả triệu đồng ngay sáng ngày 22/3. Tại hệ thống cửa hàng Công ty Vàng bạc Đá quý Sài gòn (SJC), vàng miếng SJC giao dịch ở mức 78,2 triệu đồng/lượng ở chiều mua vào, trong khi giá bán ra tại mức 80,2 triệu đồng/lượng, giảm 600.000 đồng/lượng ở cả hai chiều. Công ty Vàng bạc Đá quý Sài gòn nằm trong số ít hãng trang sức vẫn neo giá vàng miếng bán ra trên mốc 80 triệu đồng/lượng. Giá vàng miếng bán ra tại Bảo tín Minh Châu, Phú Quý hay PNJ đều dao động quanh 79,6-79,7 triệu đồng/lượng, giảm xấp xỉ cả triệu đồng chỉ trong một buổi sáng. Trong khi cũng trong sáng qua, có thời điểm vàng miếng SJC đã chạm mốc 82 triệu đồng/lượng.

Dù giá rơi sâu, chênh lệch giữa giá mua - bán vàng miếng vẫn duy trì ở mức 2 triệu đồng/lượng.

Tương tự vàng miếng SJC, giá vàng nhẫn đã quay đầu giảm ngay từ thời điểm bắt đầu giao dịch. Tại Công ty Vàng bạc Đá quý Sài gòn, vàng nhẫn 9999 yết ở mức 67,9 triệu đồng/lượng (mua vào) và 69,2 triệu đồng/lượng (bán ra). Còn tại Bảo Tín Minh Châu, vàng nhẫn cũng chính thức tuột khỏi mốc 70 triệu đồng/lượng ở chiều bán ra. Đến cuối giờ sáng, giá vàng nhẫn tròn trơn được mua ở mức 68,58 triệu đồng/lượng, trong khi bán ra tại 69,88 triệu đồng/lượng.

Cú rơi sâu hai ngày vừa qua đã kéo chênh lệch giá vàng miếng SJC với giá thế giới quy đổi về còn 12,5 triệu đồng/lượng. Chênh lệch với giá vàng nhẫn cũng thu hẹp đáng kể, về còn hơn 2,85 triệu đồng/lượng.

Hai yếu tố chính cho cú rơi của giá vàng hôm nay, đến từ nhịp điều chỉnh của vàng thế giới và động thái mới nhất của cơ quan quản lý trong điều hành thị trường vàng.

Vàng thế giới đã điều chỉnh sau khi đạt mức cao kỷ lục (2.200 USD/ounce) trong ngày hôm qua (21/3). Các nhà đầu tư ngày càng tin tưởng rằng các ngân hàng trung ương lớn có thể sẽ sớm nới lỏng chính sách tiền tệ. Cục Dự trữ Liên bang giữ nguyên lãi suất như dự đoán chung của thị trường, đồng thời, tiếp tục phát tín hiệu ba lần cắt giảm lãi suất vào năm 2024. Ngân hàng Quốc gia Thụy Sĩ bất ngờ hạ lãi suất cơ bản xuống 25 điểm cơ bản, trở thành ngân hàng trung ương đầu tiên thuộc nhóm nước phát triển bắt đầu chu kỳ nới lỏng.

Hiện giá vàng giao ngay ở mức 2.173 USD/ounce. Giá vàng tương lai giao tháng 4/2024 trên sàn Comex New York đang được giao dịch ở mức 2.175 USD/ounce.

Đồng thời, các động thái quyết liệt trong quản lý thị trường vàng đã kéo giá vàng miếng đi xuống. Trong ngày 20/3/2024 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ban hành Công điện số 23/CĐ-TTg yêu cầu tăng cường các biện pháp quản lý thị trường vàng. Chiều tối cùng ngày, Phó thủ tướng Lê Minh Khái đã họp với Ngân hàng Nhà nước và các bộ, ngành về việc thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp quản lý thị trường vàng, khẳng định Chính phủ rất quan tâm đến việc quản lý thị trường vàng.

Phó thủ tướng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước báo cáo về tình hình sản xuất, kinh doanh vàng; tìm ra nguyên nhân, qua đó nhanh chóng có giải pháp khắc phục hiệu quả cả về ngắn hạn và giải hạn; bảo đảm quản lý vàng an toàn, lành mạnh, hiệu quả, bền vững, phù hợp với nhu cầu thực tế của người dân, liên thông với các thị trường liên quan, tránh tình trạng lợi dụng tình hình để buôn lậu, đầu cơ, thao túng thị trường, kinh doanh vàng trái quy định của pháp luật để trục lợi.

Mặc dù các chính sách trên thị trường vàng tác động mạnh đến tâm lý nhà đầu tư và bước đầu tạo hiệu ứng tích cực trên thị trường vàng, diễn biến tỷ giá lại chưa “hạ nhiệt” như mong chờ. Nguyên nhân cũng bởi đồng USD đang lên giá mạnh.  

Chỉ số US Dollar Index (DXY) đo sức mạnh đồng bạc xanh với rổ 6 tiền tệ mạnh đã tăng lên mức cao nhất trong ba tuần, hiện giao dịch ở khoảng 104,2 điểm. Đồng yên Nhật – 1 trong 6 đồng tiền được tính trong rổ chỉ số DXY trượt giá mạnh bất chấp việc Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) chuyển hướng tăng lãi suất lần đầu sau 17 năm và chấm dứt kiểm soát đường cong lợi suất. Tỷ giá JPY/USD vượt qua ngưỡng tâm lý quan trọng (150 JPY/USD) và hiện ở mức 151,54 yên Nhật đổi 1 đôla. Theo các chuyên gia, quyết định tăng lãi suất của BOJ ở thời điểm được công bố đã phản ánh vào giá và không hỗ trợ được nhiều cho sự mạnh lên của đồng yên.

Bộ trưởng tài chính Nhật Bản Shunich Suzuki cho biết Chính phủ đang theo dõi các biến động tiền tệ ở mức “cấp bách cao độ”. Trong khi đó, báo cáo với Quốc hội, Thống đốc BOJ Kazuo Ueda cho biết BOJ dự kiến sẽ vẫn duy trì chính sách thích ứng, mang tính hỗ trợ rộng rãi trong thời điểm hiện tại, bất chấp sự thay đổi chính sách gần đây. 

Sẽ bỏ độc quyền, cấp hạn mức sản xuất vàng miếng cho một số doanh nghiệp

Phó thủ tướng Lê Minh Khái vừa họp với Ngân hàng Nhà nước và các bộ, ngành về việc thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp quản lý thị trường vàng.

Trong cuộc họp diễn ra ngày 20/3, Phó thủ tướng Lê Minh Khái nhấn mạnh Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ rất quan tâm đến việc quản lý thị trường vàng, xem đây là một nhiệm vụ rất quan trọng.

Theo Phó thủ tướng, trong công tác quản lý thị trường vàng thời gian qua, ngân hàng Nhà nước cũng đã có nhiều cố gắng, tuy nhiên việc báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ còn chưa kịp thời, đầy đủ để có phản ứng chính sách phù hợp với diễn biến thực tế để bình ổn thị trường vàng.

Phó thủ tướng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước báo cáo về tình hình sản xuất, kinh doanh vàng; tìm ra nguyên nhân, qua đó nhanh chóng có giải pháp khắc phục hiệu quả cả về ngắn hạn và giải hạn; bảo đảm quản lý vàng an toàn, lành mạnh, hiệu quả, bền vững, phù hợp với nhu cầu thực tế của người dân, liên thông với các thị trường liên quan, tránh tình trạng lợi dụng tình hình để buôn lậu, đầu cơ, thao túng thị trường, kinh doanh vàng trái quy định của pháp luật để trục lợi.

Tại cuộc họp, lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước đã báo cáo về thị trường vàng miếng và thị trường vàng trang sức, mỹ nghệ. Ngân hàng Nhà nước đề xuất thay đổi phương án sản xuất vàng miếng, bỏ cơ chế Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng, thực hiện cấp phép sản xuất vàng miếng cho một số doanh nghiệp đáp ứng đủ điều kiện.

Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước sẽ thực hiện cấp hạn mức sản xuất vàng miếng trong từng thời kỳ phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ và sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô. Việc xóa bỏ cơ chế Nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng sẽ phù hợp với kinh nghiệm quốc tế, tăng cung vàng miếng trên thị trường, giải quyết được vấn đề chênh lệch giá.

Thượng tướng Lương Tam Quang, Thứ trưởng Bộ Công an cho rằng, Nghị định 24/2012/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng đã triển khai hơn 10 năm. Hiện nay, thị trường vàng có nhiều biến động, diễn biến không ổn định, chứng tỏ Nghị định 24 đã bộc lộ những bất cập cần kịp thời sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế.

Bộ Công an cho rằng, khi sửa đổi Nghị định này, cần phải đánh giá tổng thể vai trò dự trữ vàng hiện nay; đồng thời cũng phải đánh giá lại công tác quản lý khuôn sản xuất vàng miếng SJC; nghiên cứu, đề xuất xây dựng cơ chế can thiệp thị trường; bổ sung quy định về biên độ chênh lệch…

Sau khi nghe các báo cáo và các ý kiến, phát biểu tại cuộc họp, Phó thủ tướng Lê Minh Khái đề nghị Ngân hàng Nhà nước tiếp thu ý kiến của các bộ ngành tại cuộc họp, báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ để có phương án xử lý sớm đối với vấn đề này, đáp ứng nhu cầu thực tế.

Theo Phó thủ tướng Lê Minh Khái, thị trường ngoại tệ, thị trường vàng, các yêu cầu về đầu tư, các chỉ số kinh tế vĩ mô có tác động đan xen lẫn nhau, do đó phải có giải pháp vừa trước mắt vừa lâu dài.

Phó thủ tướng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước theo chức năng, nhiệm vụ của mình theo dõi chặt chẽ diễn biến cung - cầu thị trường vàng trong và ngoài nước, đánh giá đúng tình hình, làm rõ nguyên nhân, "bắt đúng bệnh" để có các giải pháp phản ứng kịp thời, hiệu quả để xử lý tình hình trong hiện tại và tương lai. Trong đó phải đánh giá tổng thể, kỹ lưỡng lại các quy định của pháp luật hiện nay, nhất là các nội dung liên quan tới Nghị định số 24/2012/NĐ-CP…

Phó thủ tướng Lê Minh Khái đề nghị Ngân hàng Nhà nước và các bộ, ngành thực hiện nghiêm túc, đầy đủ các nội dung trong Công điện số 23 về quản lý thị trường vàng vừa được Thủ tướng Chính phủ ban hành theo đúng chức năng, nhiệm vụ được giao.

Hôm qua, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký Công điện số 23/CĐ-TTg yêu cầu tăng cường các biện pháp quản lý thị trường vàng. Theo đó, Thủ tướng yêu cầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan khẩn trương thực hiện nghiêm túc, đầy đủ, hiệu quả, kịp thời các nhiệm vụ, giải pháp bình ổn thị trường vàng.

Tiếp tục theo dõi sát diễn biến giá vàng thế giới và trong nước để khẩn trương thực hiện ngay các giải pháp theo quy định để bình ổn, ổn định thị trường vàng; đánh giá toàn diện, phân tích kỹ lưỡng và có các giải pháp hiệu quả, kịp thời, đúng quy định, theo nguyên tắc thị trường để xử lý ngay tình trạng chênh lệch giữa giá vàng miếng trong nước và vàng quốc tế ở mức cao trong thời gian qua, không để tình trạng "vàng hóa" nền kinh tế, không để tác động tiêu cực đến tỷ giá, lãi suất, thị trường tiền tệ, ngoại hối và an toàn, an ninh tài chính, tiền tệ quốc gia; báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả triển khai thực hiện trong tháng 3/2024.

Rà soát kỹ lưỡng, toàn diện khung khổ pháp lý, cơ chế, chính sách liên quan đến quản lý thị trường vàng và hoạt động kinh doanh vàng miếng, vàng trang sức...

Thực hiện ngay việc tổng kết thực hiện Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 03/4/2012 của Chính phủ về quản lý hoạt động kinh doanh vàng để kịp thời đề xuất cấp thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm tăng cường hiệu quả các công cụ quản lý nhà nước, bổ sung các biện pháp xử lý theo thẩm quyền phù hợp quy định, phát triển thị trường minh bạch, lành mạnh, hiệu quả và bền vững, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô; báo cáo Thủ tướng Chính phủ trước ngày 22/3/2024.

Thực hiện ngay việc thanh tra, kiểm tra đối với thị trường vàng, hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh vàng, các cửa hàng, đại lý phân phối và mua bán vàng miếng và các chủ thể khác tham gia thị trường.

Kịp thời phát hiện những sơ hở, bất cập để xử lý chủ động, tích cực, hiệu quả theo thẩm quyền và báo cáo đề xuất cấp có thẩm quyền các biện pháp xử lý phù hợp, đúng quy định đối với những vấn đề vượt thẩm quyền.

Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm theo quy định pháp luật, nhất là các hành vi buôn lậu vàng qua biên giới, trục lợi, đầu cơ, thao túng, lợi dụng chính sách đẩy giá của các tổ chức, cá nhân… gây mất ổn định, an toàn thị trường vàng.

Trường hợp phát hiện hoạt động kinh doanh vàng có dấu hiệu vi phạm pháp luật, kịp thời chuyển tài liệu, hồ sơ cho cơ quan chức năng để xử lý nghiêm, công khai, minh bạch theo quy định pháp luật; báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả thực hiện trong tháng 3 năm 2024.

Chủ động hơn nữa trong công tác thông tin, truyền thông, kịp thời cung cấp các thông tin chính thức, công khai, minh bạch về chủ trương, chính sách quản lý thị trường tài chính, tiền tệ, ngoại hối và vàng, củng cố niềm tin vào giá trị đồng Việt Nam và ổn định tâm lý người dân, tạo đồng thuận xã hội.

Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các cơ quan thanh tra, kiểm tra, bảo vệ pháp luật và cơ quan chức năng liên quan khẩn trương thực hiện ngay các biện pháp theo quy định để xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến thị trường vàng và hoạt động kinh doanh vàng, nhất là các hành vi buôn lậu, thao túng, đầu cơ trục lợi, đẩy giá vàng miếng….

Ngân hàng Nhà nước hút ròng 145.000 tỷ đồng, tỷ giá vẫn nóng

Bất chấp nỗ lực phát hành tín phiếu hút ròng 10 phiên liên tiếp của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), lãi suất trúng thầu vẫn liên tục sụt giảm. Trong khi đó, tỷ giá trên thị trường vẫn neo cao do đồng bạc xanh tăng trở lại trên thế giới.

Tính đến phiên giao dịch 22/3, NHNN đã hút về gần 145.000 tỷ đồng qua 10 phiên phát hành tín phiếu liên tiếp (từ 11-21/3).  

Đóng cửa cuối tuần qua, tỷ giá niêm yết tại các ngân hàng tiếp tục bật tăng khi chỉ số USD Index (DXY) đo lường biến động đồng bạc xanh với 6 đồng tiền chủ chốt (EUR, JPY, GBP, CAD, SEK, CHF) tăng 0,57%, vượt đạt mốc 104 điểm. USD bán ra tại các ngân hàng dao động quanh mức 24.960 đồng/USD, riêng giá bán USD bằng tiền mặt vượt 25.000 đồng/USD.

Từ đầu năm đến nay, giá USD niêm yết tại các ngân hàng tăng khoảng 1,8%, riêng USD trên thị trường tự do tăng gần 4%.   

Ông Nguyễn Đình Duy, CFA, Giám đốc phân tích cao cấp Khối xếp hạng và Nghiên cứu mảng kinh tế vĩ mô, VIS Ratings  cho rằng, nguyên nhân lớn nhất khiến tỷ giá tăng là do chênh lệch lãi suất giữa VNĐ và USD. Sự chênh lệch này khó được rút ngắn một khi Fed chưa hạ lãi suất.

TS. Cấn Văn Lực, Kinh tế trưởng BIDV cũng chỉ ra một số nguyên nhân đẩy tỷ giá trong nước nóng lên gần đây. Thứ nhất, đồng USD mạnh lên (tăng 2%) khi nền kinh tế Mỹ phục hồi ấn tượng, thậm chí không suy thoái mà còn tăng trưởng khoảng 2,5% trong năm vừa qua. Fed dự kiến sẽ hạ lãi suất chậm hơn so với kỳ vọng ban đầu. Do đó, chênh lệch lãi suất giữa đồng USD so với các đồng tiền khác vẫn ở mức cao. Thứ hai, đầu năm là thời điểm một số doanh nghiệp FDI chuyển lợi nhuận về nước. Đây là một yếu tố mang tính mùa vụ và có tác động làm tăng nhu cầu về mua bán ngoại tệ. Thứ ba, có hiện tượng đầu cơ ngoại tệ khi tỷ giá có biến động.

Mặc dù vậy, chuyên gia này cho rằng, tỷ giá sẽ bớt nóng vào nửa cuối năm nay, khi Fed giảm lãi suất. Biên độ biến động tỷ giá năm nay dự báo sẽ không lớn.  

Liên quan đến động thái liên tục hút ròng của NHNN, TS. Lực cho rằng đây là một mũi tên trúng hai đích, vừa làm giảm bớt sự dư thừa thanh khoản của hệ thống, vừa hỗ trợ tỷ giá.   

Với diễn biến tỷ giá, tín dụng như hiện nay, theo ông Lực, NHNN không cần và không nên giảm tiếp lãi suất điều hành. Nếu giảm tiếp, mức độ chênh lệch lãi suất USD/VNĐ giãn ra, lại càng gây áp lực tỷ giá.  

Với thị trường chứng khoán, TS Cấn Văn Lực cũng khẳng định rằng việc NHNN hút ròng không tác động nhiều đến thị trường chứng khoán bởi đây chỉ là một nghiệp vụ bình thường trong điều hành và nhằm bình ổn tỷ giá chứ không tác động nhiều đến dòng tiền.

Cũng nhận định tương tự, ông Nguyễn Đình Duy cho rằng, biên độ biến động tỷ giá năm nay sẽ nằm trong mức an toàn và không tác động tới các cân đối vĩ mô của nền kinh tế.  Hiện tại, cán cân thanh toán, cán cân ngoại tệ của Việt Nam vẫn an toàn nhờ xuất khẩu, giải ngân vốn FDI, kiều hối… vẫn tăng trưởng tốt.   

BIDV, Vietcombank xúc tiến kế hoạch bán vốn tỷ USD

Vietcombank được cho là đã lựa chọn Citigroup để tư vấn triển khai thương vụ chào bán riêng lẻ 6,5% vốn điều lệ, dự kiến hoàn tất thương vụ trong năm nay. BIDV nhiều khả năng cũng hoàn tất thương vụ bán vốn trong năm 2025.

Trong báo cáo phân tích về BIDV vừa được ra, chuyên viên phân tích Công ty Chứng khoán Bảo Việt (BVSC) cho rằng, BIDV đã tiếp xúc với 38 nhà đầu tư trong thời gian qua để thực hiện kế hoạch phát hành riêng lẻ 9% cổ phần theo nghị quyết tại ĐHĐCĐ năm 2022.

Cuối năm 2019, BID phát hành riêng lẻ cho KEB Hana Bank 15% vốn điều lệ với tổng giá trị giao dịch gần 20.300 tỷ đồng, tương đương với mức giá 33.640 đồng/cổ phiếu và định giá P/B là 1,9 lần.

Theo đánh giá của BVSC, giá phát hành trong thương vụ mới này có thể rơi vào mức P/B 2 lần cao hơn so với mức định giá trong thương vụ bán cho KEB Hana Bank vì 2 lý do.

Thứ nhất, ROE năm 2022 - 2023 của BIDV đạt trung bình 19%, cao hơn nhiều so với trung bình giai đoạn trước đó 14,5% và dự kiến ROE giai đoạn 2024 - 2028 cũng sẽ duy trì ở mức cao 19 - 20%.

Thứ hai, nợ xấu của BIDV cải thiện nhiều so với giai đoạn trước đó và chi phí tín dụng cũng giảm mạnh giúp ngân hàng có dư địa tăng trưởng nhiều hơn.

Với mức P/B là 2 lần, giá phát hành sẽ tương đương 48.036 đồng/cổ phiếu (với giả định giá trị sổ sách giữa năm 2024 là 24.018 đồng/cổ phiếu).

Nếu phát hành thành công, BIDV có thể thu về hơn 27.000 tỷ đồng, củng cố bộ đệm vốn cũng như hệ số CAR của ngân hàng, qua đó giúp ngân hàng có thể đạt mức tăng trưởng tín dụng cao hơn.

Theo dự phóng của BVSC, tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân CAGR của BIDV giai đoạn 2024 - 2028 có thể đạt 15,4% (cao hơn so với mức 11,9% của giai đoạn 2019 - 2023) và CAR của BIDV sẽ cải thiện lên mức 11,07% trong năm 2025 nếu hoàn thành thương vụ.

Tuy nhiên, BVSC cho rằng, việc hoàn tất thương vụ có thể kéo dài đến năm 2025 trước bối cảnh các nhà đầu tư nước ngoài thu hẹp khẩu vị rủi ro, và chưa mở rộng đầu tư vào Việt Nam.

Trước đó, Công ty Chứng khoán Vietcap cũng dự báo, BIDV có thể chào bán riêng lẻ với mức giá 49.000 - 50.000 đồng/cổ phiếu.

Ngoài thương vụ chào bán tỷ USD của BIDV, một thương vụ chào bán riêng lẻ lớn nữa cũng đang được xúc tiến là thương vụ bán vốn của Vietcombank.

Nguồn tin của Bloomberg cho hay, Vietcombank đã lựa chọn Citigroup để tư vấn triển khai thương vụ chào bán riêng lẻ 6,5% vốn điều lệ cho nhà đầu tư chiến lược. Theo đó, đại diện Vietcombank đã xác nhận với hãng tin Bloomberg về việc lựa chọn Citigroup làm đơn vị tư vấn cho thương vụ bán vốn tới đây.

Đợt chào bán vốn có thể diễn ra trong nửa cuối năm nay, dự kiến thu về được khoảng 1 tỷ USD (tương đương 24.450 tỷ đồng).

Theo đánh giá hiện tại của Chứng khoán Vietcap, giá bán kỳ vọng cho thương vụ của Vietcombank là 100.000 đồng/cổ phiếu. Tại phiên giao dịch sáng nay, cổ phiếu VCB đang giao dịch quanh mức 96.000 đồng/cổ phiếu.

Trước đó, vào tháng 1/2019, Vietcombank phát hành riêng lẻ hơn 94,4 triệu cổ phần (tương ứng 2,55% vốn) cho GIC Private Limited (GIC) - Quỹ đầu tư quốc gia của Singapore và hơn 16,6 triệu cổ phần (tương ứng 0,4% vốn) cho ngân hàng Mizuho Bank (Nhật Bản). Qua đó, thu về tổng cộng khoảng 6.200 tỷ đồng tương đương mức giá 55.800 đồng/cổ phiếu.

Tính đến ngày 31/12/2023, Vietcombank có 2 cổ đông lớn là Ngân hàng Nhà nước nắm giữ hơn 4,18 tỷ cổ phiếu, tương ứng tỷ lệ 74,8% vốn và Mizuho Bank nắm giữ gần 0,84 tỷ cổ phiếu, tỷ lệ sở hữu 15%. Các nhà đầu tư ngoại đã thắng lớn khi đầu tư vào cổ phiếu VCB. 

Cổ phiếu nhà băng bị “ngó lơ”, cơ hội nào hút dòng tiền trở lại?

Nhiều yếu tố khiến nhà đầu tư kỳ vọng cổ phiếu vua sẽ “dẫn sóng” thị trường giai đoạn tới, song những rủi ro rình rập cũng khiến dòng tiền có thể thoái lui khỏi nhóm ngành này.

Từ đầu năm đến nay, Chỉ số VN-Index tăng hơn 10%, nhiều mã cổ phiếu tăng vượt mức đỉnh năm 2023. So với các kênh đầu tư khác, chứng khoán vẫn là một trong những kênh đầu tư hấp dẫn nhất. Chiếm hơn 30% giá trị vốn hóa thị trường, nhóm cổ phiếu ngân hàng luôn nằm trong tầm quan sát của nhà đầu tư. Song, đáng ngạc nhiên là, từ đầu năm đến nay, cổ phiếu ngân hàng vẫn bị thị trường “ngó lơ”. Kể cả trong phiên giao dịch bùng nổ (thanh khoản gần 2 tỷ USD) đầu tuần này, dòng tiền chảy vào cổ phiếu ngân hàng cũng rất thấp, ít hơn nhiều so với nhóm cổ phiếu bất động sảnchứng khoán, hóa chất…

“Tỷ trọng phân bổ dòng tiền vào nhóm cổ phiếu ngân hàng đang trong xu hướng đi xuống. Chu trình về đáy dòng tiền của nhóm cổ phiếu ngân hàng sẽ mất thêm 2-3 tháng nữa. Khả năng khi dòng tiền về đáy sẽ dẫn dụ dòng tiền quay trở lại”, bà Đỗ Hồng Vân, Trưởng phòng Phân tích dữ liệu của FiinGroup nhận định.

Dù tiền không chảy vào nhóm cổ phiếu ngân hàng, song ông Nguyễn Minh Hoàng, Trưởng phòng Phân tích CTCP Chứng khoán Nhất Việt vẫn lạc quan cho rằng, điểm tích cực là tiền không bị rút ra khỏi nhóm cổ phiếu ngân hàng. Theo nhận định của chuyên gia này, nhà đầu tư đang nằm im chờ đợi kết quả kinh doanh quý I/2024, cũng như kế hoạch kinh doanh năm 2024 tại mùa đại hội đồng cổ đông năm nay trước khi đưa ra các quyết định.

Theo ông Hoàng, triển vọng thị trường chứng khoán năm 2024 vẫn rất sáng sủa, có thể đạt 1.300 - 1.350 điểm ở kịch bản cơ bản và 1.400 - 1.450 điểm ở kịch bản tích cực. Thị trường đi lên không thể thiếu nhóm ngành dẫn dắt. Nhóm ngành dẫn dắt không nhất thiết là nhóm ngành tăng mạnh nhất, nhưng có vai trò nâng đỡ, lôi kéo dòng vốn khác tham gia. Cổ phiếu ngân hàng được kỳ vọng là nhóm ngành dẫn dắt đó. Thực tế, trong con sóng gần đây nhất của VN-Index (2016-2017 và 2020-2021), nhóm cổ phiếu ngân hàng luôn giữ vai trò này.

Hiện tại, nhóm cổ phiếu ngân hàng chưa hút tiền, nhưng đang có dấu hiệu tạo đà. Bên cạnh đó, định giá cổ phiếu ngân hàng đang nằm ở dưới mức trung bình 2 năm gần đây, trong khi cổ phiếu nhiều nhóm ngành khác đã quá cao, cho thấy dư địa tăng trưởng của nhóm ngành này còn rất khả quan.

Các chuyên gia phân tích cho rằng, có nhiều yếu tố hỗ trợ cổ phiếu ngân hàng năm nay.

Thứ nhất, triển vọng lợi nhuận của nhóm ngân hàng năm nay khá lạc quan (tăng 12-15%, cao hơn nhiều so với mức tăng trưởng 3,5% năm 2023). Động lực tăng trưởng lợi nhuận vẫn chủ yếu đến từ tín dụng - dự báo khả quan hơn nhờ nền kinh tế đang phục hồi và lãi suất thấp. Mảng kinh doanh ngoài lãi (đặc biệt là bán chéo bảo hiểm) tuy khó tăng trưởng đột biến, song cũng khó giảm thêm.

Thứ hai, định giá cổ phiếu ngân hàng vẫn đang ở vùng khá hợp lý, đồng nghĩa với cơ hội tái định giá vẫn còn. Hiện còn nhiều cổ phiếu ngân hàng ở nền giá thấp so với nền trung bình 5 năm trở lại đây.

Thứ ba, các câu chuyện liên quan đến từng ngân hàng như chia cổ tức tiền mặt, phát hành cổ phiếu tăng vốn… cũng là yếu tố thu hút dòng tiền cho cổ phiếu vua. Nếu thị trường có thêm thông tin, tín hiệu xác nhận, cổ phiếu ngân hàng sẽ tăng trở lại.

Mặc dù triển vọng với cổ phiếu ngân hàng năm 2024 là rất lớn, song rủi ro đối với ngành này cũng không nhỏ, buộc nhà đầu tư thận trọng.

Năm nay, rủi ro lớn nhất với các ngân hàng niêm yết là nợ xấu tăng nhanh, trong khi tỷ lệ bao phủ nợ xấu giảm (chỉ còn 95%). Thời gian tới, các ngân hàng sẽ phải tiếp tục tăng trích lập dự phòng rủi ro, nên lợi nhuận sẽ bị ảnh hưởng.

Việc lượng lớn trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn trong năm nay cũng gây áp lực thanh khoản đối với doanh nghiệp và chất lượng tài sản ngân hàng. Theo ước tính của FiinGroup, lượng trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn năm 2024 lên tới hơn 300.000 tỷ đồng, chủ yếu là nhóm trái phiếu phi ngân hàng, lớn nhất là bất động sản.

Mặc dù triển vọng nâng hạng thị trường khiến nhiều nhà đầu tư kỳ vọng vốn ngoại sẽ chảy vào cổ phiếu ngân hàng, song thực tế, room vốn ngoại tại nhiều ngân hàng không còn nhiều. Do đó, nhà đầu tư cũng cần cẩn trọng với kỳ vọng của mình.

Triển vọng tăng trưởng lợi nhuận cổ phiếu ngân hàng được dự báo khả quan hơn năm ngoái, song thực tế, sự tăng trưởng này chưa diễn ra. Tín dụng toàn hệ thống 2 tháng đầu năm vẫn tăng trưởng âm. Một khi triển vọng lợi nhuận chưa được nhìn thấy, dòng tiền chưa thể sớm chảy vào cổ phiếu ngân hàng. Tóm lại, nhà đầu tư vẫn đang quan sát kỹ hơn các tín hiệu với dòng cổ phiếu này, chờ xác nhận của kết quả kinh doanh quý I/2024, cũng như kế hoạch kinh doanh năm 2024 mà các ngân hàng sắp công bố.

Bà Đỗ Hồng Vân khuyến nghị, nhà đầu tư nên lựa chọn cổ phiếu các ngân hàng có triển vọng tăng trưởng tín dụng tốt, định giá hợp lý, có nền tảng trích lập dự phòng rủi ro tốt (tỷ lệ bao phủ nợ xấu lớn). Đồng thời, cũng cần lưu ý cổ phiếu những ngân hàng có kế hoạch tăng vốn, chia cổ tức cao, được các quỹ nắm giữ số lượng lớn…

Trong khi đó, TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế đưa ra lời khuyên, nhà đầu tư cần biết rõ khẩu vị rủi ro của mình, sử dụng đòn bẩy hợp lý, hạn chế tâm lý đám đông và sử dụng dịch vụ chuyên môn của các trung gian tài chính nếu không thực sự am hiểu về kênh đầu tư này.

Doanh nghiệp đau đầu vì tỷ giá

Nhiều khả năng, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ tiếp tục giữ nguyên lãi suất trong phiên họp chính sách diễn ra tuần này, đồng nghĩa với việc đồng bạc xanh tiếp tục neo cao. Trong nước, tỷ giá có xu hướng tăng, khiến nhiều doanh nghiệp lo ngại.

Tuần này, Fed sẽ có phiên họp chính sách bàn về lãi suất. Dự báo, với tình hình lạm phát vẫn nóng như hiện nay, Fed sẽ giữ nguyên lãi suất cơ bản. Điều này giúp USD tiếp tục giữ ở mức cao, tiếp tục gây thêm sức ép với đồng nội tệ của nhiều nước.

Tại Việt Nam, từ đầu năm đến nay, dù giá USD bán ra tại các ngân hàng chỉ tăng 1,6-1,7%, song USD trên thị trường tự do đã có lúc tăng tới gần 4%. Tỷ giá tăng nóng, chịu ảnh hưởng nặng nề nhất là các doanh nghiệp thuần nhập khẩu, các doanh nghiệp có dư nợ vay USD lớn.

Ông Đặng Ngọc Hòa, Chủ tịch HĐQT Vietnam Airlines cho hay, cứ tỷ giá tăng 1%, thì chi phí của Tổng công ty tăng thêm 300 tỷ đồng. Như vậy, với tỷ giá biến động ở mức 4% như hiện nay - nếu tính theo tỷ giá trên thị trường tự do - Vietnam Airlines phải tăng thêm khoảng 1.200 tỷ đồng chi phí trong năm nay.

Tương tự, ông Lê Mạnh Hùng, Chủ tịch HĐTV Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) cho biết, dư nợ vay ngoại tệ của tập đoàn này hiện tại là 38.000 tỷ đồng, tương đương 1,55 tỷ USD. Tỷ giá tăng đồng nghĩa với việc chi phí của Tập đoàn tăng lên rất mạnh, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất - kinh doanh.

Trong khi doanh nghiệp nhập khẩu lo lắng vì tỷ giá tăng, thì doanh nghiệp xuất khẩu cũng không hẳn vui mừng hưởng lợi, bởi đa phần doanh nghiệp xuất khẩu hiện nay phải nhập khẩu.

Với doanh nghiệp ngành thép, điều, may mặc…, chi phí nhập khẩu nguyên liệu đều bị đội lên đáng kể vì tỷ giá tăng.

Theo Hiệp hội Thép Việt Nam, doanh nghiệp thép đang phải đối mặt với tình trạng nguyên liệu nhập khẩu (quặng sắt, thép phế liệu, than mỡ luyện cốc…) tăng cao. Trong khi đó, Hiệp hội Điều, Hiệp hội Thủy sản Việt Nam cũng phản ánh tình trạng tương tự.

Ông Trần Hữu Hậu, Phó tổng thư ký Hiệp hội Điều Việt Nam cho biết, giá nhập khẩu điều thô tăng khiến giá điều thành phẩm của doanh nghiệp tăng lên, ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh. Mặc dù với doanh nghiệp xuất khẩu, chênh lệch tỷ giá được bù đắp khi có ngoại tệ thu về từ xuất khẩu, song tỷ giá tăng nhanh khiến phần lợi thu về nhờ tỷ giá ngày càng giảm.

Theo ông Thân Đức Việt, Tổng giám đốc Công ty May 10, từ đầu năm đến nay, tình hình sản xuất - kinh doanh của May 10 đã phục hồi nhờ các đơn hàng quay trở lại. Tỷ giá tăng giúp gia tăng giá trị các đơn hàng xuất khẩu, song cũng khiến doanh nghiệp này phải đối mặt với bài toán chi phí nhập khẩu nguyên liệu, máy móc đội lên. Được biết, năm 2023, khoản lãi nhờ chênh lệch tỷ giá của May 10 giảm tới hơn 21% so với năm trước đó.

Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, trong tháng 2/2024, xuất khẩu ước đạt 24,82 tỷ USD, song nhập khẩu cũng lên tới 23,72 tỷ USD. Đáng chú ý là, 2 tháng đầu năm, Việt Nam vẫn xuất siêu, nhưng khu vực doanh nghiệp trong nước lại thâm hụt thương mại tới 3,9 tỷ USD. Nói cách khác, nếu tỷ giá tăng, doanh nghiệp được lợi chủ yếu là doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), trong khi doanh nghiệp trong nước thiệt nhiều hơn lợi. Chưa kể, tỷ giá tăng còn gây ra rủi ro nhập khẩu lạm phát.

Bà Trần Thị Hà My, chuyên gia phân tích vĩ mô tại chứng khoán Rồng Việt (VDSC) cho rằng, nếu năm nay, tỷ giá tăng 2-3% sẽ không ảnh hưởng quá lớn đến doanh nghiệp. Tuy vậy, nếu biến động quá mức này, đặc biệt từ 5% trở lên, doanh nghiệp sẽ rất khó khăn.

Từ đầu năm đến nay, tỷ giá biến động mạnh hơn nhiều so với dự báo của các định chế tài chính trước đó. Mặc dù Ngân hàng Nhà nước đã có phản ứng khá nhanh (phát hành tín phiếu hút tiền về), song tỷ giá vẫn chưa được hạ nhiệt đáng kể.

Dẫu vậy, theo dự báo của nhiều chuyên gia, áp lực tỷ giá có thể hạ nhiệt vào nửa cuối năm, khi nguồn cung ngoại tệ dồi dào hơn, đồng thời Fed có thể cắt giảm lãi suất. Ngoài ra, việc Ngân hàng Nhà nước thay đổi chính sách quản lý thị trường vàng cũng có thể tác động tích cực hơn tới tỷ giá.

Trong bối cảnh tỷ giá tăng nóng, các chuyên gia khuyến cáo, doanh nghiệp nhập khẩu cần chú ý tới các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá, đồng thời cân nhắc kỹ lưỡng các điều khoản trong hợp đồng vay ngoại tệ (có thể thỏa thuận điều kiện lãi suất thả nổi khi dự kiến Fed có thể giảm lãi suất từ cuối năm 2024). 

VAMC chỉ mua nợ theo giá thị trường, được bán nợ xấu thấp hơn nợ gốc

NHNN vừa công bố dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số Điều của Thông tư 19/2013/TT-NHNN ngày 06/9/2013 quy định về việc mua, bán và xử lý nợ xấu của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam.

Ngày 18/01/2024, Luật Các TCTD 2024 đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2024. Nghị quyết 42 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD đã hết hiệu lực thi hành từ 01/01/2024 và một số nội dung quy định tại Nghị quyết 42 đã được luật hóa tại Luật TCTD 2024.

Theo đó, Thông tư bổ sung quy định về nguyên tắc mua, bán nợ xấu của VAMC. Theo đó, việc mua nợ xấu của VAMC từ tổ chức tín dụng liên doanh, tổ chức tín dụng 100% vốn nước ngoài, chi nhánh ngân hàng nước ngoài chỉ được thực hiện theo giá trị thị trường.

Dự thảo Thông tư cũng quy định, VAMC bán nợ xấu, tài sản đảm bảo của khoản nợ xấu có thể cao hơn hoặc thấp hơn dư nợ gốc của khoản nợ xấu; được bán nợ xấu cho pháp nhân, cá nhân.   

Khách hàng vay có khoản nợ xấu bán cho Công ty Quản lý tài sản và có phương án sản xuất, kinh doanh, Dự ánđầu tư có hiệu quả được tổ chức tín dụng xem xét, cấp tín dụng theo thỏa thuận và quy định của pháp luật.

Điều kiện các khoản nợ xấu được VAMC mua theo giá trị thị trường là: được VAMC đánh giá có khả năng thu hồi đầy đủ số tiền mua nợ; tài sản đảm bảo của khoản nợ xấu có khả năng phát mại hoặc khách hàng vay có triển vọng phục hồi khả năng trả nợ; Trường hợp chuyển khoản nợ xấu đã mua bằng trái phiếu đặc biệt thành khoản nợ xấu mua theo giá trị thị trường thì trái phiếu đặc biệt tương ứng với khoản nợ xấu đó còn phải đáp ứng điều kiện chưa đến hạn thanh toán và đang không bị phong tỏa tại NHNN…

VAMC chỉ được mua nợ xấu theo giá trị thị trường sau khi đánh giá khoản nợ xấu đáp ứng các điều kiện được quy định; xác định giá trị thị trường của khoản nợ xấu (phải định giá hoặc thuê tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định giá trị khoản nợ xấu và tài sản đảm bảo); Đánh giá hiệu quả kinh tế, rủi ro và khả năng thu hồi vốn mua khoản nợ xấu; Phân tích, đánh giá thực trạng và triển vọng khoản nợ xấu, khách hàng vay, bên bảo đảm, bên có nghĩa vụ trả nợ và các điều kiện thỏa thuận mua nợ với TCTD bán nợ; Dự kiến các biện pháp khả thi xử lý nợ, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu.

Nhà băng thà ôm tiền hơn “quỳ thu nợ”

Hàng trăm ngàn tỷ đồng đang nằm trong các ngân hàng, trong khi doanh nghiệp thiếu vốn. Nhiều doanh nghiệp phản ánh, phải có tài sản thế chấp với tỷ lệ lên tới 100% thì mới được ngân hàng cho vay.

Ông Lê Tiến Trường, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Dệt may Việt Nam cho hay, cũng giống như các doanh nghiệp ngành sợi trên thế giới, doanh nghiệp sợi ở Việt Nam vừa trải qua năm 2023 đầy khó khăn. Từ đầu năm 2024, hầu hết ngân hàng thương mại cắt giảm hạn mức cho vay với doanh nghiệp sợi hoặc yêu cầu phải có tài sản đảm bảo 100% với khoản vay ngắn hạn.

“Năm 2023, doanh nghiệp chỉ cần khoảng 20% tài sản đảm bảo cho khoản vay là được giải ngân, song năm nay, ngân hàng yêu cầu tài sản đảm bảo phải có giá trị 100% khoản vay hoặc áp dụng chính sách trả nợ cũ 10 thì sẽ được vay lại ở mức 8-9”, ông Trường cho biết.

Không riêng doanh nghiệp sợi, hầu hết doanh nghiệp phản ánh, ngân hàng dường như thận trọng hơn trong cho vay, yêu cầu khắt khe về tài sản đảm bảo. Nếu như trước đây, ngân hàng chấp nhận một phần tài sản đảm bảo là nhà xưởng, cổ phần…, thì hiện nay, hầu như chỉ còn chấp nhận tài sản đảm bảo là bất động sản. Việc vay vốn tín chấp càng trở nên xa vời.

Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, tín dụng tính đến cuối tháng 2/2024 giảm 0,72%, trong khi tiền gửi vào hệ thống ngân hàng ngày càng tăng. Theo Phó thống đốc Đào Minh Tú, tín dụng giảm chủ yếu do sức hấp thụ của nền kinh tế yếu, song một phần do một số ngân hàng thận trọng trong thực hiện cấp tín dụng vì nợ xấu tăng.

“Quy trình thủ tục cho vay của một số ngân hàng vẫn chậm được cải tiến, nhất là thời gian xét duyệt cho vay còn dài, định giá và quyết định tài sản thế chấp còn quá thận trọng. Việc thực hiện cơ chế tài sản bảo đảm còn thiếu linh hoạt, chủ yếu dựa vào tài sản thế chấp, thiếu sự kết nối, tương tác, chia sẻ, hợp tác giữa khách hàng và ngân hàng trong việc trực tiếp trao đổi tìm biện pháp tháo gỡ khó khăn về vốn”, Phó thống đốc nhận định.

Chia sẻ với phóng viên Báo Đầu tư, TS. Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia ngân hàng cho rằng, nhu cầu vay vốn vẫn có, song do khả năng trả nợ sút giảm, lòng tin của ngân hàng với doanh nghiệp yếu đi, nên ngân hàng có tiền cũng không dám cho vay. Khi niềm tin bị đứt gãy, ngân hàng buộc phải “ôm” tài sản thế chấp mới dám cho vay. Nhưng sau 2 năm kiệt quệ vì Covid-19, nhiều doanh nghiệp cũng không còn tài sản để thế chấp, đồng nghĩa với việc không thể tiếp cận vốn.

Vì sao ngân hàng thừa tiền, doanh nghiệp lại kêu thiếu vốn, vì sao tiền gửi ùn ùn chảy vào ngân hàng, mà tín dụng lại giảm? Đâu là nút thắt, tháo gỡ ra sao? Đó là những câu hỏi mà Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các ngân hàng và doanh nghiệp cùng ngồi với nhau để tìm giải pháp.

Nhìn từ góc độ ngân hàng thương mại, ông Nguyễn Đức Vinh, Tổng giám đốc VPBank thừa nhận, ngân hàng đang phải đối phó với tình trạng thừa tiền.

“Tiền trong ngân hàng thừa hàng chục ngàn tỷ đồng là phí phạm. Nhưng nói rằng, ngân hàng không muốn cho vay là không đúng. Ngân hàng rất muốn cho vay, nhưng điều kiện nào để cho vay mới là vấn đề. VPBank có hơn 40.000 khách hàng doanh nghiệp với hạn mức tín dụng cấp cho họ là 240.000 tỷ đồng, nhưng đến nay, mới giải ngân được hơn 60.000 tỷ đồng, còn lại không giải ngân được, do doanh nghiệp không có đầu ra, không có phương án kinh doanh”, CEO VPBank cho biết.

Lãnh đạo nhiều ngân hàng thương mại khác cũng thừa nhận, hiện có tình trạng ngân hàng thà “ôm tiền” còn hơn cho vay nếu sức khỏe doanh nghiệp quá bấp bênh, khó đòi nợ. Tình trạng này xuất phát từ việc quyền chủ nợ của ngân hàng chưa được bảo vệ đầy đủ.

“Các ngân hàng thương mại vẫn e sợ khi không có được sự bảo đảm nào từ cơ quan bảo vệ pháp luật nếu không thu được nợ mà lại thiếu tài sản bảo đảm hay giải ngân cho doanh nghiệp đang lỗ. Vấn đề này, các ngân hàng thương mại cũng đã trải nghiệm trên thực tế, dẫn tới tâm lý “cho vay có thiếu sót, nhưng thu hồi được nợ còn hơn cho vay đúng mà không thu hồi đủ nợ”, ông Phạm Đức Ấn, Chủ tịch Hội đồng Thành viên Agribank lý giải.

Việc Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu đã hết hiệu lực, nhưng lại không được luật hóa đầy đủ vào Luật Các tổ chức tín dụng 2024, khiến “đoạn trường” đòi nợ của doanh nghiệp từ năm 2024 thêm khó khăn.

Ông Nguyễn Đức Vinh cho hay, nếu như trước đây, cho vay tín chấp mới có nguy cơ mất vốn, thì hiện nay, cho vay có tài sản thế chấp cũng không dễ xử lý nợ.

“Càng ngày, ngân hàng càng khó khăn trong xử lý nợ, khiến không dám cho vay. Hiện nay, tất cả ngân hàng đang lâm vào tình trạng không ai hỗ trợ thu giữ tài sản đảm bảo. Trước đây, chỉ những khoản vay tín chấp mới có nguy cơ mất vốn, hiện nay thì cả có tài sản thế chấp cũng mất ít nhất 2-3 năm mới thu hồi được nợ”, ông Vinh cho biết.

Nhiều ngân hàng thương mại đề nghị, để ngân hàng yên tâm cho vay, giải pháp dài hơi là phải có một bộ luật riêng về xử lý nợ xấu. Trước mắt, cần sớm sửa Bộ luật Dân sự để đảm bảo công bằng quyền lợi của cả bên vay lẫn bên cho vay.

Bán bảo hiểm qua ngân hàng: "Chưa chắc do chủ tịch, giám đốc chỉ đạo"

Theo đại biểu Quốc hội, thời gian qua, thị trường bảo hiểm nhân thọ, đặc biệt là các công ty bảo hiểm nhân thọ nước ngoài bán các sản phẩm thông qua các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng có nhiều sai phạm.

Việc liên kết bán bảo hiểm nhân thọ qua ngân hàng có thể là hành vi của nhân viên ngân hàng chứ chưa chắc đã do các chủ tịch, giám đốc các ngân hàng thương mại chỉ đạo, Bộ Tài chính xây dựng quy trình thanh tra kiểm tra để đảm bảo đúng quy định...

Nội dung trên được Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc nêu khi trả lời chất vấn trực tiếp tại phiên họp thứ 31 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, sáng 18/3.

Đại biểu Nguyễn Thị Hà (Bắc Ninh) chất vấn: thời gian qua, thị trường bảo hiểm nhân thọ, đặc biệt là các công ty bảo hiểm nhân thọ nước ngoài bán các sản phẩm thông qua các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng có nhiều sai phạm.

Đại biểu đề nghị Bộ trưởng Bộ Tài chính cho biết kết quả xử lý sai phạm và giải pháp của Bộ trong thời gian tới để ngăn chặn các sai phạm này.

Trả lời, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc cho biết hiện có 19 công ty bảo hiểm, trong đó, có 2 công ty bảo hiểm trong nước là Bảo Minh và Bảo Việt còn lại 17 công ty bảo hiểm liên doanh với nước ngoài, của nước ngoài. Hoạt động chủ yếu là các đại lý, nhân viên trong nước thực hiện.

Theo Bộ trưởng, việc liên kết bán bảo hiểm nhân thọ qua ngân hàng có thể là hành vi của nhân viên ngân hàng chứ chưa chắc đã do của các chủ tịch, giám đốc các ngân hàng thương mại chỉ đạo. Có thể là bảo hiểm liên kết giữa ngân hàng hợp đồng với các công ty bảo hiểm để hưởng chi phí dịch vụ nhưng trong quá trình thực hiện có sự lệch lạc, thiếu thanh tra, kiểm tra, định hướng, quản lý. Từ đó dẫn đến nhân viên tư vấn sai, ảnh hưởng đến người tham gia bảo hiểm.

Bộ đã xây dựng, tổ chức phối hợp thanh tra, kiểm tra để đảm bảo đúng đắn trong hoạt động bảo hiểm, Bộ trưởng hồi âm.

Vẫn liên quan đến vấn đề bảo hiểm, đại biểu Trần Đình Gia (Hà Tĩnh) nêu, hiện nay tình trạng người mua bảo hiểm được chào mời với chiết khấu cao, và được trừ vào tiền mua bảo hiểm lần đầu; tình trạng người tư vấn bảo hiểm chèo kéo, tranh giành khách hàng quá mức làm méo mó thị trường bảo hiểm, làm hiểu lầm cho khách hàng điều này đã gây ảnh hưởng đến chất lượng bảo hiểm.

Bên cạnh đó, theo đại biểu, thời gian hợp đồng bảo hiểm thường rất dài, dùng nhiều thuật ngữ chuyên ngành trong khi đó người tư vấn thường chỉ tư vấn những mặt tốt của bảo hiểm mà chưa nói rõ những quyền hạn và điều kiện khi tham gia, dẫn đến tình trạng người mua bảo hiểm không nắm chắc nội dung hợp đồng và thường bị thiệt thòi.

Vị đại biểu Hà Tĩnh đề nghị Bộ trưởng Bộ Tài chính làm rõ những giải pháp để giải quyết vấn đề này trong thời gian tới?

Hồi âm, ông Phớc nói, những hành vi chèo kéo trong bán bảo hiểm là hành vi của các nhân viên bảo hiểm, công ty bảo hiểm. Luật nghiêm cấm việc các cán bộ bảo hiểm tư vấn sai, tranh giành, lôi kéo, dùng các thủ đoạn để bán bảo hiểm với những người chưa có nhận thức cao.

Ông Phớc cho hay, Bộ Tài chính đã kiểm tra, thanh tra khi có khiếu nại hành vi đó, xử phạt nghiêm minh, chuyển cho cơ quan điều tra các vụ việc có dấu hiệu sai phạm xử lý.

Về hợp đồng kéo dài, theo Bộ trưởng, trước đây, có những hợp đồng kéo dài hàng chục trang, gây sơ hở trong nắm bắt thông tin, gây thiệt hại cho người tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên, khi sửa đổi Luật Kinh doanh bảo hiểm (2023), có một chương cho hợp đồng bảo hiểm để đảm bảo hợp đồng bảo hiểm gọn hơn, rõ hơn, chặt chẽ hơn. Đồng thời quy định, trong vòng 21 ngày, nếu phát hiện hợp đồng bảo hiểm có sai sót thì người tham gia bảo hiểm có quyền đòi nhận lại tiền và công ty bảo hiểm phải trả lại cho người tham gia bảo hiểm.

Xem thêm tại baodautu.vn